Hướng tới nền an ninh năng lượng bền vững
Sau 5 năm triển khai Nghị quyết 55 của Bộ Chính trị về chiến lược phát triển năng lượng quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn 2045, ngành năng lượng Việt Nam đã đạt được nhiều kết quả tích cực. Tốc độ tăng trưởng được duy trì ổn định, nhu cầu phát triển cơ bản được đáp ứng, đồng thời ngành điện đã góp phần quan trọng trong việc củng cố quốc phòng – an ninh và nâng cao đời sống nhân dân. Đây là nền tảng quan trọng để tiếp tục hiện thực hóa mục tiêu dài hạn trong giai đoạn tới.

Ảnh minh hoa
Tuy nhiên, thực tiễn cũng bộc lộ nhiều hạn chế. Tiến độ của hàng loạt dự án nguồn điện còn chậm so với yêu cầu, trong khi nhu cầu phụ tải ngày càng tăng. Thị trường năng lượng chưa vận hành đầy đủ theo cơ chế thị trường, thiếu minh bạch, kém hiệu quả. Chính sách giá còn bất cập, đặc biệt là tình trạng bù chéo giá điện kéo dài, tạo ra sự méo mó trong tín hiệu thị trường. Những yếu tố này khiến nguy cơ thiếu điện trong giai đoạn tăng trưởng cao trở thành nỗi lo thường trực, đồng thời ảnh hưởng đến niềm tin của nhà đầu tư.
Trong bối cảnh đó, Nghị quyết 70 của Bộ Chính trị được ban hành, đặt ra mục tiêu đến năm 2030 phải bảo đảm vững chắc an ninh năng lượng quốc gia, cung ứng điện ổn định, chất lượng cao, đồng thời gắn với mục tiêu giảm phát thải và phát triển bền vững. Các chỉ tiêu cụ thể gồm: tổng cung năng lượng sơ cấp đạt 150–170 triệu TOE; tổng công suất điện từ 183–236 GW; sản lượng điện đạt 560–624 tỷ kWh; trong đó năng lượng tái tạo chiếm 25–30%.
Đến năm 2045, Việt Nam hướng tới xây dựng một ngành năng lượng đồng bộ, hiện đại, bền vững, có hạ tầng thông minh, kết nối khu vực và quốc tế. Thị trường năng lượng phải vận hành cạnh tranh, minh bạch, hiệu quả, trong khi khoa học – công nghệ, quản trị và nguồn nhân lực ngành năng lượng cần đạt trình độ ngang tầm với các nước công nghiệp phát triển. Đây là mục tiêu đầy tham vọng, đòi hỏi nguồn vốn đầu tư khổng lồ, cơ chế thị trường thực chất và sự tham gia mạnh mẽ của khu vực tư nhân.
Để đạt được những mục tiêu trên, Nghị quyết 70 nhấn mạnh hàng loạt giải pháp. Trước hết là hoàn thiện thể chế, áp dụng cơ chế giá thị trường cho tất cả loại năng lượng, từng bước xóa bỏ bù chéo giá điện. Song song, cần phát triển đồng bộ thị trường năng lượng, bảo đảm cạnh tranh bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, đặc biệt là khu vực tư nhân. Bên cạnh đó, việc đa dạng hóa nguồn cung được đặt lên hàng đầu: thúc đẩy mạnh mẽ năng lượng tái tạo, năng lượng mới và sạch; giảm dần tỷ trọng điện than; phát triển điện khí và điện hạt nhân trở thành trụ cột. Ngoài ra, tăng cường dự trữ năng lượng quốc gia cũng là yêu cầu bắt buộc để ứng phó với những biến động khó lường của thị trường và môi trường quốc tế.
Doanh nghiệp năng lượng còn đối diện với nhiều thách thức
Nghị quyết 70 của Bộ Chính trị xác định rõ mục tiêu đến năm 2030 phải bảo đảm vững chắc an ninh năng lượng quốc gia, cung ứng đầy đủ, ổn định và chất lượng cao, đồng thời gắn phát triển năng lượng với yêu cầu giảm phát thải và hướng tới phát triển bền vững. Các chỉ tiêu cụ thể được đưa ra khá chi tiết: tổng cung năng lượng sơ cấp phải đạt mức 150–170 triệu TOE; tổng công suất nguồn điện đạt 183–236 GW; sản lượng điện đạt 560–624 tỷ kWh; trong đó năng lượng tái tạo chiếm khoảng 25–30%. Xa hơn, đến năm 2045, ngành năng lượng Việt Nam được định hướng trở thành một hệ thống đồng bộ, hiện đại, minh bạch, có khả năng kết nối khu vực và quốc tế.
Song để hiện thực hóa những mục tiêu đầy tham vọng này, đòi hỏi nguồn vốn đầu tư khổng lồ và một cơ chế thị trường thực chất. Đây chính là thách thức kép: vừa mở ra cơ hội phát triển, vừa tạo ra sức ép lớn đối với khu vực doanh nghiệp tư nhân – vốn đang giữ vai trò ngày càng quan trọng trong lĩnh vực năng lượng.

Ảnh minh hoa
Ông Bùi Văn Thịnh, Chủ tịch Hiệp hội Điện gió và Điện mặt trời Bình Thuận, nhấn mạnh: Quy hoạch điện VIII đặt ra yêu cầu đến năm 2030, tổng công suất điện phải đạt 183–236 GW, tức gấp 2,5–3 lần toàn bộ thành quả tích lũy trong suốt 70 năm qua. Tuy nhiên, thực tế năm 2024 chỉ bổ sung được 1.500 MW, và năm 2025 kỳ vọng thêm 5.000–7.000 MW. Với tiến độ này, mục tiêu đề ra sẽ khó đạt, thậm chí nguy cơ thiếu điện sẽ hiện hữu ngay trong giai đoạn tới.
Theo phân tích, ba nhóm nguyên nhân chính đang cản trở sự phát triển. Trước hết là sự chồng chéo của hệ thống pháp luật và chính sách thiếu ổn định. Cơ chế FIT đã kết thúc nhưng cơ chế mới lại chậm ban hành, chưa hoàn thiện, tạo ra tâm lý dè dặt, thiếu niềm tin nơi nhà đầu tư. Kế đến là bài toán giá điện bất hợp lý: EVN đang gánh lỗ lũy kế hàng chục nghìn tỷ đồng, trong khi nhiều nhà đầu tư cũng rơi vào tình trạng không có lãi. Đây là yếu tố làm nản lòng cả doanh nghiệp trong và ngoài nước.
Đại diện EVN cũng thừa nhận, áp lực vốn và tài chính hiện nay là vô cùng lớn. Doanh nghiệp nhà nước này kiến nghị cần sớm xây dựng cơ chế giá minh bạch, linh hoạt, phản ánh đúng chi phí đầu vào, đồng thời nhanh chóng tháo gỡ điểm nghẽn truyền tải để hấp thụ hiệu quả nguồn năng lượng tái tạo. Thực tế đã chứng minh, hàng loạt dự án năng lượng tái tạo trong thời gian qua phải “đắp chiếu” vì không kịp hoàn thành trong khung giá FIT, hoặc hạ tầng lưới điện không theo kịp, gây thiệt hại không nhỏ cho các nhà đầu tư.
Ông Thịnh thẳng thắn: “Thách thức lớn nhất của doanh nghiệp năng lượng tái tạo hiện nay không nằm ở năng lực hay kinh nghiệm, mà chính là tính hiệu quả của các dự án trong khuôn khổ chính sách hiện hành. Niềm tin vào môi trường đầu tư đang bị bào mòn khi nhiều dự án bị rà soát lại giá mua điện.”
Không chỉ từ phía doanh nghiệp, các chuyên gia cũng nhiều lần cảnh báo về cơ chế giá điện – yếu tố then chốt quyết định dòng vốn đầu tư. Ông Nguyễn Tiến Thỏa, nguyên Cục trưởng Cục Quản lý giá (Bộ Tài chính), chỉ ra ba bất cập lớn. Thứ nhất, giá điện chưa tuân thủ đúng cơ chế thị trường, chưa tính đúng và đủ chi phí đầu vào, dẫn tới tình trạng “mua cao bán thấp”, khiến EVN thua lỗ và nhà đầu tư mất niềm tin. Thứ hai, giá điện đang phải gánh quá nhiều mục tiêu cùng lúc: vừa hỗ trợ tăng trưởng ngành điện, vừa thu hút đầu tư, đồng thời duy trì ổn định vĩ mô, kiềm chế lạm phát và bảo đảm an sinh xã hội. Những mục tiêu này vốn khó hài hòa, thậm chí xung đột, nên cơ chế giá trở nên méo mó. Thứ ba, cơ chế bù chéo kéo dài quá lâu – giữa các nhóm khách hàng, giữa sản xuất và sinh hoạt, giữa các vùng miền – khiến giá điện không phản ánh đúng giá trị thực của 1 kWh. Ông nhấn mạnh: “Điện đã trở thành một dạng giá bao cấp cho toàn xã hội, vừa kìm hãm đầu tư, vừa không tạo áp lực đổi mới công nghệ và tiết kiệm năng lượng.”
Những bất cập này khiến thị trường điện thiếu minh bạch, kém sức hút trong mắt nhà đầu tư cả trong và ngoài nước. Nếu không có giải pháp căn cơ, mục tiêu huy động khoảng 150 tỷ USD vốn đầu tư cho ngành điện từ nay đến năm 2030 sẽ khó có thể trở thành hiện thực.
Những bài học vẫn còn nguyên sức nặng
Sau 5 năm triển khai Nghị quyết 55 của Bộ Chính trị, ngành năng lượng Việt Nam đã ghi nhận nhiều kết quả tích cực. Tốc độ tăng trưởng được duy trì ổn định, nhu cầu phát triển cơ bản được đáp ứng, đồng thời đóng góp quan trọng trong củng cố quốc phòng – an ninh và cải thiện đời sống nhân dân. Đây là những thành tựu không thể phủ nhận, tạo tiền đề cho giai đoạn phát triển tiếp theo.

Ảnh minh hoa
Tuy nhiên, đằng sau những kết quả đó vẫn còn không ít hạn chế nổi cộm. Nhiều dự án nguồn điện chậm tiến độ, mức độ phụ thuộc vào nhập khẩu năng lượng ngày càng lớn, hệ thống hạ tầng thiếu đồng bộ – đặc biệt là khâu truyền tải. Bên cạnh đó, tỷ lệ nội địa hóa các thiết bị quan trọng vẫn ở mức thấp, chưa đáp ứng yêu cầu tự chủ.
Một thực tế khác là thị trường năng lượng chưa vận hành đúng nghĩa theo cơ chế thị trường. Chính sách giá điện còn nhiều bất cập, cơ chế bù chéo kéo dài qua nhiều năm, dẫn tới nguy cơ thiếu điện luôn thường trực trong các giai đoạn tăng trưởng cao. Theo báo cáo của Bộ Công Thương, giai đoạn 2011–2020, phát triển điện lực vẫn tồn tại nhiều hạn chế, khiến hệ thống điện quốc gia vận hành trong tình trạng căng thẳng, an ninh cung ứng thường xuyên bị đe dọa. Các dự án nguồn triển khai chậm, cơ cấu nguồn chưa tương thích với phân bố phụ tải, lưới truyền tải không theo kịp, gây ra mất cân đối cung – cầu trên cả ba miền.
Những con số cụ thể càng cho thấy rõ ràng bức tranh này: tỷ lệ thực hiện các dự án nguồn điện lớn từ than và khí – vốn đóng vai trò then chốt – chỉ đạt 63%, kéo theo thiếu hụt nguồn cung và mức dự phòng công suất thấp. Ở khâu truyền tải, tiến độ đường dây 500kV chỉ đạt khoảng 72% so với quy hoạch, còn đường dây 220kV là 80%. Hệ quả là nhiều khu vực thường xuyên xảy ra tình trạng đầy tải và quá tải, ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng cung ứng điện.
Trong bối cảnh đó, Nghị quyết 70 của Bộ Chính trị đã nhấn mạnh rằng: bảo đảm an ninh năng lượng không chỉ là trách nhiệm của Nhà nước, mà là nhiệm vụ chung của cả hệ thống, đặc biệt cần có sự tham gia sâu rộng của khu vực tư nhân. Những điểm nghẽn vốn tồn tại từ thời Nghị quyết 55 – từ cơ chế giá chưa hợp lý, tiến độ dự án ì ạch cho đến sai phạm trong phát triển năng lượng tái tạo – đều đã được nhận diện rõ.
Điều này cho thấy, cơ hội bứt phá là rất lớn, nhưng thách thức cũng vô cùng nặng nề. TS. Lê Xuân Nghĩa, Viện trưởng Viện Tư vấn phát triển (CODE), lưu ý rằng năng lực vốn, công nghệ và quản trị của doanh nghiệp tư nhân trong nước hiện còn hạn chế. Vì vậy, song song với việc mở cửa cho khu vực tư nhân tham gia, Nhà nước cần xây dựng một cơ chế giám sát minh bạch, ngăn chặn lợi ích nhóm và bảo đảm sự cân bằng lợi ích giữa Nhà nước – doanh nghiệp – người dân.
Chính sách mới chỉ thực sự phát huy hiệu quả khi đi kèm hành động quyết liệt. Trước hết là tháo gỡ các điểm nghẽn trong truyền tải, hoàn thiện thị trường điện cạnh tranh, xử lý dứt điểm những dự án sai phạm, và quan trọng hơn cả là khôi phục niềm tin cho các nhà đầu tư – yếu tố sống còn để huy động dòng vốn và tạo đột phá cho ngành năng lượng.
Nguồn: TheLEADER