Động lực từ chính sách
Nhằm hoàn thiện khung pháp lý về giảm phát thải khí nhà kính, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu, Việt Nam đã ban hành nhiều nghị định, quyết định liên quan đến vấn đề này. Đáng chú ý là Nghị định số 06/2022/NĐ-CP. Theo đó, từ nay đến năm 2027, Chính phủ dự định hoàn thiện các quy định, chính sách để đến năm 2028 có thể chính thức đưa ra sàn giao dịch Carbon đầu tiên tại Việt Nam.
Theo Luật Bảo vệ môi trường 2020, thị trường carbon chính là nơi diễn ra các giao dịch về việc mua bán, trao đổi tín chỉ carbon giữa các công ty, đơn vị, tổ chức hoặc giữa các quốc gia. Đây chính là cơ chế tạo nguồn lực để thúc đẩy việc giảm phát thải khí nhà kính và chuyển đổi sang nền kinh tế trung hòa carbon.
Các thị trường carbon nổi bật trên thế giới
Doanh số giao dịch ở thị trường carbon thế giới đã đạt 760 tỉ EUR (897 tỉ USD), tăng 164% vào năm 2021. Theo Tập đoàn giao dịch chứng khoán London, giá trị thị trường carbon toàn cầu đạt kỷ lục 949 tỉ USD vào năm 2023. EU, Anh, Mỹ và Trung Quốc áp dụng cơ chế ETS, về nguyên tắc, thị trường carbon nội địa cho phép công ty có dư tín chỉ carbon (nhờ các biện pháp tối ưu hóa sản xuất) thu tiền từ nỗ lực giảm phát thải của mình. EU ETS cũng là ETS quốc tế đầu tiên trên thế giới, chính thức đi vào vận hành từ năm 2005. Trong năm 2023, thị trường ETS châu Âu phát sinh giao dịch 1,123 tỉ tấn carbon (giảm 11% so với năm 2022) và đạt doanh thu 770 tỉ EUR, theo S&P Global. Thị trường carbon, trong nhiều năm thiếu hụt, cuối cùng đã trở thành một trong những công cụ phổ biến nhất trong cuộc chiến chống biến đổi khí hậu.
Điều kiện mở khóa thị trường Carbon tại Việt Nam
Theo ước tính, Việt Nam cần đến 473 tỉ USD để ứng phó với biến đổi khí hậu và đạt được mục tiêu Net Zero đã cam kết. Vì vậy, doanh thu từ tín chỉ carbon sẽ mang tính thiết yếu cho quá trình phát triển bền vững và mục tiêu cho các dự án tài chính xanh. Việc gia nhập thị trường carbon làm tăng khả năng tương thích với thị trường trong khu vực và trên thế giới, tạo ra lợi thế cạnh tranh cho sản phẩm Việt Nam, đồng thời cùng chia sẻ kinh nghiệm, kiến thức và chuyên môn giữa Việt Nam và thế giới.
Tại cuộc họp “Đề án thành lập thị trường tín chỉ carbon tại Việt Nam” ngày 8/1/2024, Thứ trưởng Bộ Tài chính Lê Tấn Cận cho biết thị trường tín chỉ carbon tại Việt Nam được xây dựng cần phù hợp với điều kiện thực tiễn. Ông nhấn mạnh:
“Đây là hướng đi phù hợp với định hướng phát triển của quốc gia, cam kết giảm phát thải khí nhà kính với quốc tế và xu hướng phát triển thị trường tín chỉ carbon toàn cầu, đồng thời giúp tận dụng tối đa nguồn lực của các thành phần kinh tế trong nước trong việc tham gia hoạt động giảm nhẹ phát thải khí nhà kính.”
Bên cạnh đó, Việt Nam đã trở thành quốc gia đầu tiên ở khu vực Đông Á - Thái Bình Dương nhận được khoản thanh toán 51,5 triệu USD từ World Bank dựa trên kết quả giảm phát thải. Thành công này đưa Việt Nam đến gần hơn với thị trường tín chỉ carbon, thực hiện những cam kết về khí hậu mà Việt Nam đã đưa ra, bao gồm cả mục tiêu Net Zero vào năm 2050. Đây là bước khởi đầu về tiềm năng bán tín chỉ carbon rừng.
Chênh lệch giá và đơn vị tiền tệ giữa các thị trường khác nhau cũng là một trong những thách thức nên được giải quyết bằng việc đưa ra một thị trường carbon nội địa. Giá tín chỉ carbon do môi trường kinh tế và pháp lý quanh nó quy định, do đó không thể so sánh giá tín chỉ carbon giữa các khu vực pháp lý khác nhau. Xét trên khía cạnh hợp tác quốc tế, EU đưa ra Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon (CBAM), áp thuế carbon với một số sản phẩm nhập khẩu bên ngoài khối khiến nhiều người quan tâm đến sự khác biệt về giá bán tín chỉ carbon chênh lệch với châu Âu. Giá carbon của thị trường ETS Trung Quốc hiện dao động ở mức 8 USD/tấn, trong khi giá ở EU cao hơn 10 lần, vào khoảng 110 USD/tấn. Ở thị trường carbon nội địa, giá bán sẽ phụ thuộc vào quy định chính sách của nước đó.
Xét đến thị trường Việt Nam, tạo ra một thị trường trong nước, các doanh nghiệp sẽ tiếp cận dễ dàng với cùng một đơn vị tiền, ít tốn kém hơn. Chuyển động xung quanh thị trường carbon giúp doanh nghiệp có thể trao đổi và tăng doanh thu nhằm tái đầu tư vào công nghệ xanh.
Ngoài ra, việc hình thành thị trường carbon nội địa cũng cần chú ý đến một số vấn đề. Cụ thể, việc thiếu các nguyên tắc thống nhất và được chấp nhận rộng rãi trong việc tính toán trợ cấp carbon có nghĩa là các công ty phải lựa chọn từ rất nhiều khả năng khác nhau, không có định hướng rõ ràng về những lựa chọn tốt nhất hoặc khả năng so sánh, đối chuẩn với các doanh nghiệp khác trong thị trường. Những quyết định đầu tư, giao dịch và hoạt động có thể bị trì hoãn hoặc bị cản trở do thiếu cách xử lý kế toán rõ ràng. Đáng lưu ý, nếu không có sự cân nhắc thích đáng, việc đưa ra những yêu cầu báo cáo mới để tạo điều kiện điều chỉnh lượng carbon ở biên giới (hoặc các biện pháp bắt buộc phải báo cáo hoặc chứng nhận khác) có thể làm tăng chi phí hành chính và giao dịch. Điều này có thể vô tình hạn chế sự tham gia vào thị trường toàn cầu, đặc biệt đối với các doanh nghiệp nhỏ hơn hoặc kém phức tạp hơn. Rủi ro này có thể được giảm thiểu bằng cách tinh giản và hài hòa những yêu cầu báo cáo, giúp giảm thiểu chi phí và tránh áp đặt các rào cản thương mại ngoài ý muốn.
Ngoài ra, thị trường carbon quốc gia có thể đối mặt với thách thức lớn là độ tin cậy của dữ liệu. Soi chiếu theo thị trường Trung Quốc, thách thức về quản lý dữ liệu là lý do khiến thị trường carbon chưa mở rộng sang các lĩnh vực khác, theo Caijing, một tạp chí tài chính ở Trung Quốc.
Các doanh nghiệp Việt Nam vẫn gặp trở ngại đáng kể trong việc hình thành và kinh doanh tín chỉ carbon. Thách thức lớn nhất là việc xác minh sự hình thành tín chỉ carbon. Sau khi nộp đơn đăng ký theo cơ chế giao dịch tín chỉ carbon, doanh nghiệp sẽ cần bên thứ 3 xác minh. Tuy nhiên, chi phí xác minh các khoản tín chỉ carbon này không hề rẻ và khó khăn về phương pháp luận. Những hạn chế về mặt kỹ thuật dẫn đến số lượng tín chỉ carbon được hình thành ở Việt Nam rất thấp, đặc biệt đối với các dự án liên quan đến tín chỉ carbon rừng. Việc chấp nhận đầu tư và bỏ ra một khoản vốn lớn cũng khiến nhiều doanh nghiệp e dè.
Nhìn chung, bất kỳ thay đổi nào trong giá carbon đều có thể ảnh hưởng đáng kể đến hồ sơ chi phí của nhà sản xuất và vị thế cạnh tranh của họ. Thực vậy, một mô hình của PwC ước tính rằng riêng việc triển khai đầy đủ CBAM sẽ làm tăng chi phí carbon cho nhiều hàng hóa từ 5 lần trở lên.
Theo đó, PwC đã chỉ ra 04 thực tiễn có thể giúp các lãnh đạo doanh nghiệp chuẩn bị cho sự chuyển động dự kiến trong chi phí carbon để mở khóa sàn giao dịch Carbon.
Đối chuẩn lượng phát thải và rủi ro bị đánh thuế tương ứng. Thu thập thông tin về lượng khí thải carbon trong quy trình sản xuất của công ty, từ lượng khí thải tại chỗ đến chuỗi cung ứng nguồn. Sau đó, xác định giá carbon áp dụng như thế nào đối với những phát thải đó, chú ý đến giá cả thay đổi như thế nào theo ngành và theo loại phát thải.
Biến mọi thứ thành cơ hội. Doanh nghiệp có thể được tài trợ một phần đáng kể các khoản đầu tư năng lượng sạch bằng các khoản tài trợ, những khoản vay chi phí thấp và các hình thức hỗ trợ khác của chính phủ. Ngoài ra, hầu hết các hệ thống giao dịch khí thải cho phép doanh nghiệp giảm lượng khí thải của họ tạo ra những khoản tín dụng carbon có thể được bán, mở ra một con đường mới để tạo ra giá trị.
Lên kế hoạch trước để tránh những cú sốc về giá. Bằng cách kiểm tra chi phí carbon của công ty theo những kịch bản giá trong tương lai và các chế độ quản lý mới, doanh nghiệp có thể xác định những cơ hội để giảm chi phí carbon và tránh rủi ro định giá trong tương lai.
Thu hút các nhà đầu tư. Một số ngân hàng và công ty cổ phần tư nhân đã đánh giá rủi ro định giá carbon mà người vay và các công ty danh mục đầu tư phải đối mặt. Các nhà điều hành nên tham gia với nhà đầu tư, người cho vay, công ty bảo hiểm và các tổ chức tài chính khác để giải thích cách công ty quản lý việc tiếp xúc với giá carbon và nêu bật những nỗ lực để giảm bớt sự tiếp xúc đó.
Lưu ý: Mọi số liệu trong bài viết được dựa trên kết quả nghiên cứu thứ cấp từ đội ngũ PwC và các tài liệu nghiên cứu được công bố của PwC.