Câu lạc bộ Liên thế hệ Tự giúp nhau
Thư viện sáng kiến
24/10/2025 02:16
Đơn vị thực hiện
-
Hạng mục
DỰ ÁN
-
Thời gian
TỪ 2017 ĐẾN NAY
-
Lĩnh vực
Sức khỏe và Thịnh vượng Cộng đồng
Với tốc độ già hóa dân số nhanh, nhiều người cao tuổi (NCT) Việt Nam đang đối mặt với tình trạng sức khỏe kém, an sinh thiếu đảm bảo và nguy cơ bị bỏ lại phía sau. Những năm 2006–2007, chỉ hơn 26% NCT được hưởng lương hưu hoặc trợ cấp, hơn 70% phải tự lao động hoặc sống nhờ con cháu, trong đó 41,97% cho biết sức khỏe yếu (Nguyen, 2008; UNFPA, 2011).
Mô hình Câu lạc bộ Liên thế hệ Tự giúp nhau (CLB LTH TGN) là tổ chức xã hội tự nguyện tại cộng đồng, gồm 50–70 thành viên, khoảng 70% là NCT, phụ nữ và người có hoàn cảnh khó khăn, cùng hỗ trợ nhau nâng cao chất lượng cuộc sống. Với phương pháp liên thế hệ, tự giúp nhau, dựa vào cộng đồng và 8 mảng hoạt động đa dạng, CLB giúp cải thiện sức khỏe, tăng thu nhập, chăm sóc người yếu thế, thúc đẩy đoàn kết cộng đồng và phát huy vai trò NCT.
Mô hình đã được Chính phủ nhân rộng, đến nay có hơn 9.000 CLB trên cả nước, mang lại lợi ích thiết thực cho hàng trăm nghìn NCT và cộng đồng.
Bối cảnh dự án
Già hóa dân số, phân bổ nông thôn – thành thị và khía cạnh giới
Trước năm 2006 – thời điểm ra đời của mô hình Câu lạc bộ Liên thế hệ Tự giúp nhau (CLB LTH TGN) – Việt Nam đã bước vào giai đoạn già hóa dân số với tốc độ nhanh hàng đầu thế giới. Số người cao tuổi (NCT, từ 60 tuổi trở lên) tăng nhanh, từ gần 6,2 triệu người (8,1% dân số, trong đó nữ chiếm gần 58%) năm 1999 lên 7,74 triệu người (9,2% dân số, nữ chiếm khoảng 59%) năm 2005. Già hóa diễn ra trong bối cảnh Việt Nam vẫn là nước có thu nhập trung bình thấp, tạo sức ép lớn lên hệ thống an sinh và y tế. Hơn 77% NCT sống ở nông thôn, nơi điều kiện sống, việc làm và dịch vụ xã hội còn hạn chế. Phụ nữ chiếm đa số trong nhóm này, thường có tuổi thọ cao hơn nhưng ít tích lũy tài chính, ít lương hưu và dễ rơi vào cảnh thiếu nguồn lực trong những năm cuối đời. NCT ở miền núi và dân tộc thiểu số chịu thêm thiệt thòi do nghèo đói, hạ tầng yếu và khoảng cách địa lý, làm hạn chế khả năng tiếp cận dịch vụ và thông tin chính sách.
Thu nhập và an sinh xã hội
Trong giai đoạn 2006–2007, mạng lưới bảo trợ xã hội cho NCT còn rất hạn chế. Chỉ một bộ phận nhỏ, chủ yếu là người từng làm việc trong khu vực nhà nước, người có công hoặc hoàn cảnh đặc biệt khó khăn được hưởng lương hưu hay trợ cấp. Chỉ 16–17% NCT ở nông thôn được hưởng lương hưu hoặc chế độ mất sức, hơn 10% được hưởng trợ cấp người có công, còn lại trên 70% phải tự lao động hoặc sống nhờ con cháu. Điều này phản ánh tính bấp bênh về thu nhập và nguy cơ nghèo cao khi tuổi già, đặc biệt đối với phụ nữ cao tuổi và NCT ở nông thôn, miền núi, dân tộc thiểu số.
Sức khỏe và chăm sóc dài hạn
Về sức khỏe, mặc dù tuổi thọ trung bình tăng, 41,97% NCT tự đánh giá sức khỏe yếu và 90,83% có ít nhất một bệnh mạn tính. Các bệnh phổ biến gồm tăng huyết áp, tim mạch, tiểu đường, thoái hóa cơ xương khớp. Nhiều NCT chỉ đi khám khi bệnh nặng, trong khi dịch vụ chăm sóc dài hạn và kiến thức tự chăm sóc còn hạn chế. Ở nông thôn và miền núi, việc chăm sóc phần lớn dựa vào gia đình, trong khi di cư lao động khiến nhiều NCT rơi vào cảnh neo đơn, thiếu chăm sóc.
Khung pháp lý và vai trò xã hội
Về khung pháp lý, trước năm 2006, Việt Nam chưa có Luật Người cao tuổi (chỉ được ban hành năm 2009), chưa có Luật Dân số, mới chỉ có Pháp lệnh Dân số năm 2003. Các chính sách dành cho NCT còn rời rạc, chủ yếu mang tính bảo trợ, chưa khuyến khích sự tham gia và phát huy vai trò xã hội của NCT. Hội NCT và các đoàn thể đã có hoạt động hỗ trợ nhưng nguồn lực và khuôn khổ pháp lý còn yếu, chưa đảm bảo quyền lợi và tính bền vững.
Học tập suốt đời, tiếp cận thông tin và khoảng cách số
Cơ hội học tập suốt đời, tiếp cận thông tin và công nghệ của NCT cũng rất hạn chế, đặc biệt ở nông thôn và miền núi. Điều này làm gia tăng khoảng cách thế hệ, hạn chế khả năng tiếp cận dịch vụ, chính sách và cơ hội giao lưu, học tập mới.
Quyền lợi, chế độ và mức đầu tư công
Một số chính sách trợ giúp xã hội, miễn giảm viện phí tồn tại nhưng độ bao phủ thấp, thủ tục hành chính phức tạp và thông tin chưa đến được nhiều NCT. Ngân sách nhà nước cho công tác chăm sóc và phát huy vai trò NCT còn hạn chế so với nhu cầu thực tế.
Phân biệt tuổi tác và khoảng cách liên thế hệ
Bên cạnh đó, vẫn tồn tại những định kiến xã hội đối với NCT – xem họ là gánh nặng, già yếu, khó thích nghi – làm gia tăng khoảng cách thế hệ và khiến nhiều NCT cảm thấy cô đơn, ít có cơ hội đóng góp xã hội tương xứng với kinh nghiệm và năng lực.
Trước năm 2006, các mô hình cộng đồng hỗ trợ NCT tồn tại rời rạc, thiếu tính đa chiều và bền vững. Nhiều mô hình chỉ tập trung vào một lĩnh vực riêng lẻ như cho vay vốn, chăm sóc sức khỏe hoặc sinh hoạt văn hóa, thiếu tính liên thế hệ, chưa huy động được sự tham gia của lớp trẻ và cộng đồng. Tính cộng đồng còn yếu, phụ thuộc vào tài trợ hoặc chỉ đạo hành chính, thiếu cơ chế hướng dẫn nhân rộng và duy trì bền vững.
Trong bối cảnh đó, Việt Nam đứng trước một nghịch lý: dân số đang già hóa nhanh, nhu cầu hỗ trợ NCT ngày càng đa dạng nhưng chưa có mô hình cộng đồng nào vừa toàn diện, vừa bền vững, vừa do chính người dân làm chủ. Các mô hình trước đây chỉ giải quyết từng phần, trong khi NCT cần được hỗ trợ đa chiều – về kinh tế, sức khỏe, tinh thần và kết nối xã hội. Chính khoảng trống này đã thúc đẩy sự ra đời của mô hình Câu lạc bộ Liên thế hệ Tự giúp nhau (CLB LTH TGN) – một sáng kiến dựa vào cộng đồng, hướng tới hỗ trợ toàn diện, phát huy vai trò NCT và tăng cường gắn kết xã hội trong bối cảnh già hóa dân số nhanh.
Sáng kiến - phát kiến của dự án
Mô hình Câu lạc bộ Liên thế hệ Tự giúp nhau (CLB LTH TGN) là sáng kiến cộng đồng do Hội Người cao tuổi Việt Nam khởi xướng, với sự hỗ trợ kỹ thuật và tài chính của Tổ chức Hỗ trợ Người cao tuổi Quốc tế tại Việt Nam (HelpAge International – HAI), được thí điểm từ năm 2006. Đây là mô hình xã hội tự nguyện đặt tại thôn, bản hoặc tổ dân phố, nơi các thành viên cùng nhau cải thiện chất lượng cuộc sống, thích ứng với già hóa dân số và xây dựng cộng đồng bền vững.
Mỗi CLB có khoảng 50–70 thành viên, trong đó khoảng 70% là người cao tuổi, phụ nữ và người có hoàn cảnh khó khăn. CLB hoạt động theo nguyên tắc tự nguyện, dân chủ, công khai, minh bạch, tự quản và gắn kết liên thế hệ. Ban chủ nhiệm gồm năm người do các thành viên bầu chọn, trực tiếp điều hành và kết nối CLB với Hội Người cao tuổi và chính quyền địa phương. Dưới Ban chủ nhiệm, CLB được chia thành các nhóm nhỏ theo khu vực địa lý và chức năng, như nhóm tăng thu nhập, tổ tình nguyện viên chăm sóc tại nhà. Cơ cấu này giúp các thành viên phát huy năng lực, được hỗ trợ phù hợp với nhu cầu và tăng cường tính tự quản trong cộng đồng.
CLB LTH TGN triển khai tám mảng hoạt động toàn diện nhằm giải quyết các thách thức đa chiều của già hóa dân số nhanh:
- Tăng thu nhập: nhằm giải quyết bài toán an sinh cho NCT, CLB tổ chức các hoạt động truyền thông về kỹ thuật chăn nuôi, trồng trọt, kinh doanh; đồng thời vận hành quỹ vốn vay quay vòng; khuyến khích chia sẻ giữa các thành viên trong và ngoài CLB. Nhiều CLB được chính quyền địa phương ghi nhận về hỗ trợ giảm nghèo bền vững, đặc biệt với phụ nữ khó khăn và NCT nông thôn.
- Chăm sóc sức khỏe: tổ chức khám sức khỏe hằng năm cho thành viên và NCT ngoài cộng đồng, theo dõi chỉ số sức khỏe hàng tháng, truyền thông chăm sóc sức khỏe, duy trì các nhóm thể dục, thể thao, cũng như kết nối với trạm y tế xã và bệnh viện để bảo đảm sự hỗ trợ y tế kịp thời.
- Chăm sóc tại nhà: để đáp ứng nhu cầu chăm sóc tại nhà của NCT và người yếu thế tại địa phương, CLB thành lập tổ tình nguyện viên chăm sóc tại nhà gồm ít nhất 10 người/CLB, chăm sóc ít nhất 5 người tại cộng đồng với tần suất tối thiểu 2 lần/tuần. Các hỗ trợ gồm động viên tinh thần, hỗ trợ sinh hoạt hằng ngày (nấu cơm, giặt giũ, vệ sinh cá nhân, v.v.), qua đó giúp người neo đơn, khó khăn tại thôn/xóm, người khuyết tật, người có bệnh mạn tính vơi bớt sự cô đơn và có thêm động lực sống, giảm gánh nặng cho gia đình.
- Đảm bảo quyền, lợi ích: truyền thông về quyền và lợi ích, hỗ trợ thành viên làm thủ tục tiếp cận quyền lợi, đồng thời phản ánh các kiến nghị lên chính quyền địa phương.
- Văn hóa văn nghệ, thăm hỏi giao lưu: để NCT không còn cô đơn và luôn lạc quan, tích cực trong cuộc sống tuổi già, CLB duy trì các đội văn hóa, văn nghệ, tổ chức các hoạt động giao lưu, thăm hỏi nhân dịp lễ tết, hiếu hỉ, qua đó tăng cường sự gắn kết trong cộng đồng.
- Học tập suốt đời: để duy trì sự minh mẫn và giúp NCT không bị tụt lại phía sau về tiếp cận thông tin, tiến bộ khoa học kỹ thuật mới nhất, CLB thúc đẩy phong trào học tập suốt đời, nâng cao nhận thức, kiến thức cho NCT thông qua các buổi tập huấn, nói chuyện chuyên đề, khuyến khích tiếp cận công nghệ thông tin mới và học nghề, kỹ năng phù hợp với từng nhóm thành viên.
- Tự giúp nhau và hỗ trợ cộng đồng: để khẳng định và phát huy vai trò NCT, CLB thường xuyên phân công và triển khai các hoạt động giúp người có hoàn cảnh khó khăn hoặc thành viên gặp các sự cố, tình huống khẩn cấp. Các hỗ trợ này có thể là ngày công (sửa nhà, thu hoạch lúa, v.v.) hoặc vật chất (quyên góp tiền, thực phẩm, đồ dùng). Ngoài ra, CLB cũng tích cực tham gia hoạt động hỗ trợ cộng đồng hàng tháng (như dọn dẹp các khu vực công cộng, trồng hoa, v.v.)
- Vận động nguồn lực: để duy trì tất cả các mảng hoạt động nêu trên và đảm bảo tính bền vững, CLB huy động nguồn lực tại chỗ thông qua Sổ tấm lòng vàng (kêu gọi mạnh thường quân), hoạt động tăng thu nhập tập thể, vốn vay quay vòng, phí thành viên, v.v.
Điểm nổi bật của mô hình CLB LTH TGN là việc tích hợp tám mảng hoạt động này thành một hệ sinh thái hỗ trợ toàn diện, khác với các mô hình đơn mảng trước đây. Các mảng có tính bổ trợ, tạo ra tác động cộng hưởng: tăng thu nhập giúp cải thiện sức khỏe và dinh dưỡng; hoạt động cộng đồng giúp người cao tuổi giảm cô đơn; nguồn lực tại chỗ bảo đảm tính tự chủ. Mô hình có tính linh hoạt cao, thích ứng với điều kiện từng địa phương, có thể mở rộng thêm các nội dung mới như thích ứng biến đổi khí hậu hay chăm sóc có trả phí.
Tính liên thế hệ là đặc điểm nổi bật của CLB. Khoảng 30% thành viên là người trung niên và thanh niên, tạo sự hỗ trợ hai chiều giữa các thế hệ: người trẻ hỗ trợ người cao tuổi về kỹ năng số, thể lực; người cao tuổi chia sẻ kinh nghiệm sống và giá trị văn hóa. Cách tiếp cận này vừa thu hẹp khoảng cách thế hệ, vừa đảm bảo tính kế thừa khi lớp trẻ trở thành lực lượng điều hành tiếp nối trong tương lai.
Một đổi mới khác là trao quyền tài chính cho người cao tuổi. CLB được giao quản lý trực tiếp quỹ vốn vay tăng thu nhập – một bước đột phá vì trước đây các dòng vốn này do tổ chức khác quản lý. Nhờ tính minh bạch và kỷ luật cao, các CLB đã chứng minh năng lực quản lý tài chính hiệu quả, với tỷ lệ hoàn vốn cao. Việc cho phép cả hộ có điều kiện vay vốn, cùng với sáng kiến “tình nguyện viên phát triển kinh tế”, giúp lan tỏa kinh nghiệm và tạo động lực tự vươn lên cho các thành viên khó khăn. Chính cơ chế tự quản lý và sinh lời này giúp CLB tự chủ tài chính và duy trì bền vững sau khi kết thúc hỗ trợ bên ngoài.
Với những đổi mới về phương pháp tiếp cận, tính toàn diện và cơ chế tự chủ, mô hình CLB LTH TGN đã chứng minh hiệu quả trong việc hỗ trợ người cao tuổi và cộng đồng thích ứng với già hóa dân số. Mô hình đã được Chính phủ và các tổ chức quốc tế ghi nhận rộng rãi:
- Được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt nhân rộng qua ba giai đoạn: Quyết định 1533/QĐ-TTg (2016–2020), Quyết định 1336/QĐ-TTg (đến năm 2025) và Quyết định 1648/QĐ-TTg (đến năm 2035).
- Được lồng ghép trong các chương trình quốc gia như Chăm sóc sức khỏe người cao tuổi đến năm 2030, Chương trình Hành động Quốc gia về người cao tuổi giai đoạn 2021–2030, và Chiến lược quốc gia về người cao tuổi đến năm 2035, tầm nhìn 2045.
- Đạt Giải Nhất hạng mục “Sáng kiến dựa vào cộng đồng” tại Giải thưởng Sáng kiến vì một châu Á già hóa khỏe mạnh (2020).
- Được Liên hợp quốc, WHO, Ngân hàng Thế giới, Ngân hàng Phát triển châu Á và nhiều tổ chức quốc tế khác ghi nhận là điển hình tốt trong thúc đẩy phát triển bền vững và thích ứng với già hóa dân số.
Mục tiêu và tầm nhìn của dự án
Tầm nhìn
Câu lạc bộ Liên thế hệ Tự giúp nhau (CLB LTH TGN) hướng tới xây dựng một cộng đồng gắn kết, công bằng và bao trùm, nơi mọi thế hệ – đặc biệt là người cao tuổi (NCT) và các nhóm yếu thế – được chăm lo đời sống vật chất, tinh thần, sức khỏe, đồng thời có cơ hội tham gia tích cực vào các hoạt động xã hội, kinh tế, văn hóa. Trong dài hạn, mô hình hướng đến mục tiêu góp phần xây dựng một xã hội “già hóa năng động”, nơi tuổi già không còn là gánh nặng mà là nguồn lực đóng góp cho sự phát triển chung.
Mục tiêu
- Nâng cao phúc lợi và chất lượng cuộc sống của thành viên CLB, đặc biệt là NCT, phụ nữ và người có hoàn cảnh khó khăn, thông qua hỗ trợ chăm sóc sức khỏe, chăm sóc xã hội, tăng thu nhập và kết nối cộng đồng.
- Tạo điều kiện để các thành viên phát huy tiếng nói và vai trò, tham gia vào các hoạt động chăm sóc sức khỏe, phát triển kinh tế hộ gia đình, nâng cao nhận thức xã hội và tham gia vào quá trình ra quyết định tại cộng đồng.
- Thúc đẩy sự gắn kết liên thế hệ, thông qua các hoạt động văn hóa, giáo dục, tương trợ và chia sẻ kinh nghiệm, góp phần thu hẹp khoảng cách giữa các thế hệ và xây dựng tinh thần đoàn kết cộng đồng
- Góp phần thực hiện các mục tiêu quốc gia về an sinh xã hội, chăm sóc sức khỏe và phát triển bền vững, phù hợp với Chiến lược quốc gia về NCT và các cam kết quốc tế của Việt Nam.
Mục tiêu của Chính phủ đối với mô hình (theo Quyết định 1648/QĐ-TTg)
- Phát triển ít nhất 12.000 CLB LTH TGN mới trên toàn quốc đến năm 2035, với khoảng 660.000 thành viên.
- Duy trì và nâng cao chất lượng hoạt động của hơn 9.000 CLB hiện có, bảo đảm tính bền vững và hiệu quả.
- Đảm bảo ít nhất 30% thôn, bản, buôn, ấp, khóm, tổ dân phố có CLB LTH TGN.
- Lồng ghép 8 nội dung hoạt động của CLB với các nhiệm vụ về chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, khởi nghiệp và tạo việc làm.
- Xây dựng mạng lưới chăm sóc và phát huy vai trò NCT tại cộng đồng, góp phần thực hiện Chiến lược quốc gia về NCT.
Động lực thúc đẩy
- Xu hướng già hóa nhanh, đòi hỏi mô hình hỗ trợ và thích ứng phù hợp nhằm giảm áp lực cho hệ thống y tế, an sinh và gia đình.
- Chính sách của Nhà nước, thể hiện qua Quyết định 1648/QĐ-TTg, xác định CLB LTH TGN là một giải pháp chiến lược, gắn với mục tiêu cụ thể về quy mô và chất lượng đến năm 2035.
- Nhu cầu từ cộng đồng, đặc biệt từ nhóm NCT nghèo và dễ bị tổn thương, cần được chăm sóc sức khỏe, hỗ trợ sinh kế và gắn kết xã hội.
- Sức mạnh của tinh thần tự giúp nhau và liên thế hệ, phát huy nội lực, tăng cường sự chủ động, chia sẻ trách nhiệm trong cộng đồng.
- Hiệu quả thực tiễn và kinh nghiệm quốc tế, khi mô hình đã được công nhận là sáng kiến hiệu quả, được nhân rộng trong nước và khu vực.
CLB Liên thế hệ Tự giúp nhau là mô hình xã hội mang tính nhân văn và sáng tạo, thể hiện định hướng chiến lược trong thích ứng với quá trình già hóa dân số, đồng thời góp phần xây dựng một xã hội bao trùm, công bằng và phát triển bền vững
Quá trình triển khai - phạm vi - chi phí của dự án
Tiền thân của mô hình Câu lạc bộ Liên thế hệ Tự giúp nhau (CLB LTH TGN) là CLB Đồng cảm NCT, khởi xướng năm 2006 trong khuôn khổ một dự án quốc tế do tổ chức HAI phối hợp với Hội NCT Việt Nam và các đối tác trong nước. Mô hình ban đầu hỗ trợ NCT bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS. Sau một năm, mô hình cho thấy hiệu quả tích cực và được điều chỉnh thành CLB LTH TGN (2007), mở rộng đối tượng thụ hưởng và áp dụng nguyên tắc tự giúp nhau, huy động cộng đồng, gắn kết liên thế hệ.
Từ năm 2007–2012, mô hình được thử nghiệm và dần hoàn thiện với 8 mảng hoạt động chính, đáp ứng nhu cầu của thành viên và cộng đồng. Quỹ CLB được thiết kế nhằm bảo đảm bền vững tài chính thông qua lãi vốn vay quay vòng, phí thành viên, vận động Sổ Tấm lòng vàng và hoạt động tăng thu nhập tập thể. Thành công ban đầu tạo nền tảng cho các dự án tiếp theo do HAI hỗ trợ, mở rộng phạm vi triển khai và khẳng định hiệu quả, tính bền vững của mô hình.
Đối tượng thụ hưởng và hoạt động
CLB tập trung hỗ trợ NCT, phụ nữ, người nghèo, cận nghèo và các nhóm yếu thế khác như NCT sống một mình, gia đình khuyết thế hệ. Các hoạt động triển khai toàn diện trên 8 mảng chính, đồng thời một số CLB mở rộng thêm hoạt động phù hợp với nhu cầu địa phương như phòng chống thiên tai, ứng phó khẩn cấp, chăm sóc dài hạn cho NCT yếu thế.
Nhân rộng mô hình và chính sách quốc gia
Từ năm 2012, CLB LTH TGN được đưa vào chỉ số của Chương trình hành động quốc gia về NCT giai đoạn 2012–2020, đánh dấu bước chuyển từ sáng kiến cộng đồng sang chính sách quốc gia. Mô hình tiếp tục được nhân rộng qua ba Đề án của Chính phủ do Thủ tướng phê duyệt, giao Hội NCT Việt Nam chủ trì:
- Đề án 1533 (2016–2020): Thí điểm nhân rộng mô hình, tập huấn, biên soạn tài liệu, truyền thông, giám sát, sơ kết – tổng kết. Đến cuối 2020, có khoảng 2.500 CLB với hơn 125.000 thành viên tại 58/63 tỉnh, thành.
- Đề án 1336 (2020–2025): Mở rộng quy mô, củng cố tổ chức và chất lượng hoạt động CLB. Đến giữa năm 2025, cả nước có gần 9.000 CLB với hơn 450.000 thành viên tại 63/63 tỉnh, thành.
- Đề án 1648 (2025–2035): Mục tiêu phát triển thêm ít nhất 12.000 CLB, thu hút 660.000 thành viên, củng cố 9.000 CLB hiện có, góp phần thực hiện Chiến lược quốc gia về NCT và Nghị quyết 72-NQ/TW.
Nguồn lực và hỗ trợ quốc tế
HAI đã vận động nhiều nguồn tài trợ quốc tế để hỗ trợ Hội NCT các cấp và địa phương nhân rộng mô hình, gồm Liên minh châu Âu, KOICA (qua HelpAge Hàn Quốc), Atlantic Philanthropies, Quỹ Phát triển Xã hội Nhật Bản (qua Ngân hàng Thế giới)... Các dự án này góp phần nâng cao năng lực, xây dựng mô hình điểm, phát triển tài liệu hướng dẫn (kể cả bản số hóa) và truyền thông rộng rãi. Một số tổ chức như UNFPA, ADB tiếp tục thí điểm bổ sung mảng chăm sóc dài hạn có trả công trong CLB.
Nguồn lực và tài chính
CLB duy trì bằng nhiều nguồn lực: đóng góp của thành viên, Hội viên Hội NCT, cộng đồng, doanh nghiệp, ngân sách địa phương, Quỹ Chăm sóc và Phát huy vai trò NCT, Quỹ “Ngày vì người nghèo”, Quỹ an sinh xã hội. Một số địa phương như Bắc Ninh, Hưng Yên hỗ trợ 50–100 triệu đồng/CLB; Thanh Hóa có hơn 1.200 CLB với tổng quỹ tăng thu nhập trên 100 tỷ đồng. Các CLB tự vận động thêm qua Sổ Tấm lòng vàng để hỗ trợ người khó khăn.
Trong hơn 10 năm, ngân sách trung ương hỗ trợ khoảng 6,5 tỷ đồng cho các hoạt động tập huấn, tài liệu, truyền thông, giám sát. Nguồn lực xã hội hóa đóng vai trò then chốt, với tổng kinh phí tự huy động của 9.000 CLB đạt hơn 450 nghìn tỷ đồng và nhiều hiện vật. Hàng trăm nghìn lượt thành viên được vay vốn nhỏ, góp phần tăng thu nhập và cải thiện đời sống. Ngoài ra, các dự án quốc tế hỗ trợ tổng cộng hơn 7,5 triệu USD cho hoạt động nhân rộng, tập huấn, truyền thông, xây dựng công cụ quản lý và số hóa hướng dẫn CLB.
Sau gần hai thập kỷ triển khai, CLB Liên thế hệ Tự giúp nhau đã trở thành mô hình tiêu biểu trong việc hỗ trợ NCT và nhóm yếu thế, gắn kết các thế hệ và huy động sức mạnh cộng đồng. Với 8 mảng hoạt động toàn diện, mạng lưới phủ khắp cả nước và sự phối hợp chặt chẽ giữa Nhà nước, tổ chức xã hội, quốc tế và người dân, mô hình CLB LTH TGN khẳng định vai trò quan trọng trong thích ứng với già hóa dân số, góp phần xây dựng xã hội bao trùm, nhân văn và bền vững.
Kết quả đạt được
Kết quả định tính:
Trong bối cảnh già hóa dân số nhanh, mô hình Câu lạc bộ Liên thế hệ Tự giúp nhau (CLB LTH TGN) đã chứng minh vai trò là một giải pháp cộng đồng toàn diện, hiệu quả và bền vững để thích ứng với sự chuyển dịch cơ cấu dân số. Sau gần hai thập kỷ triển khai, mô hình mang lại những kết quả rõ rệt ở cấp cá nhân, hộ gia đình và cộng đồng.
Nâng cao chất lượng sống toàn diện cho người cao tuổi (NCT):
- Thu nhập và sinh kế: Thông qua quỹ tăng thu nhập và các hoạt động hỗ trợ sản xuất, kinh doanh nhỏ, nhiều thành viên có điều kiện duy trì hoặc mở rộng sinh kế như trồng trọt, chăn nuôi, thủ công, buôn bán nhỏ. Nhờ đó, nhiều NCT có thêm thu nhập ổn định, giảm nghèo và nâng cao tự tin.
- Sức khỏe thể chất và tinh thần: CLB tổ chức tập luyện thể dục, giao lưu văn nghệ, sinh hoạt tinh thần, đồng thời phối hợp với y tế cơ sở tổ chức khám sức khỏe định kỳ, tầm soát bệnh thường gặp. Việc đo huyết áp, truyền thông về dinh dưỡng, lối sống lành mạnh được thực hiện thường xuyên, giúp NCT cải thiện sức khỏe, giảm trầm cảm và cô đơn.
- Chăm sóc tại nhà: Tình nguyện viên chăm sóc tại nhà hỗ trợ NCT neo đơn, ốm yếu, khuyết tật với các hoạt động thiết thực như nấu ăn, dọn dẹp, trò chuyện, nhắc uống thuốc. Hiện có hơn 45.000 tình nguyện viên, giúp CLB trở thành bên cung cấp dịch vụ chăm sóc dài hạn lớn nhất cả nước.
- Bảo vệ quyền và lợi ích: CLB tổ chức thảo luận, lấy ý kiến thành viên và đối thoại với chính quyền; truyền thông về luật pháp, chính sách, hỗ trợ tiếp cận quyền lợi và kịp thời phản ánh các khó khăn lên cấp có thẩm quyền. NCT được nâng cao nhận thức và tự tin hơn trong việc bảo vệ quyền lợi của mình.
- Nâng cao nhận thức và kiến thức: Thông qua sinh hoạt định kỳ và các buổi tập huấn, CLB giúp NCT nâng cao hiểu biết về chăm sóc sức khỏe, kỹ năng tự chăm sóc, quản lý tài chính nhỏ, cũng như kiến thức về chuyển đổi số, an toàn thông tin.
- Tăng cường đoàn kết cộng đồng: Tinh thần “tương trợ lẫn nhau” thể hiện qua việc chia sẻ kinh nghiệm, giúp đỡ nhau trong sản xuất và đời sống, cũng như hỗ trợ khẩn cấp cho thành viên hoặc hộ gặp khó khăn.
Biến NCT thành chủ thể tích cực: Mô hình giúp NCT chuyển từ đối tượng thụ hưởng sang chủ thể tham gia. Họ giữ vai trò trong ban chủ nhiệm, quản lý quỹ, điều hành hoạt động, làm tình nguyện viên phát triển kinh tế hoặc chăm sóc tại nhà. Qua đó, NCT được nâng cao vị thế xã hội và thay đổi cách nhìn nhận của cộng đồng.
Phát huy tinh thần tương thân tương ái và tình nguyện: CLB khơi dậy tinh thần “lá lành đùm lá rách”, lan tỏa tình nguyện thông qua các hoạt động chăm sóc tại nhà, hỗ trợ khẩn cấp, chia sẻ kinh nghiệm sản xuất và sinh hoạt. Sự tham gia của phụ nữ, thanh niên và trung niên giúp tăng tính liên kết cộng đồng.
Mô hình hiệu quả, chi phí thấp và bền vững: Với cơ chế đơn giản, dựa vào nguồn lực sẵn có tại cộng đồng, CLB có chi phí vận hành thấp nhưng mang lại hiệu quả cao, phù hợp để nhân rộng và đảm bảo tính bền vững lâu dài.
Nâng cao tiếng nói và vai trò xã hội của NCT: CLB tạo điều kiện để NCT tham gia đóng góp ý kiến vào các kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội, đối thoại với chính quyền, tham gia giữ gìn trật tự, phòng chống tệ nạn, xây dựng đời sống văn hóa.
Đảm bảo tính liên thế hệ và tính kế thừa: CLB tập hợp nhiều nhóm: NCT, trung niên, phụ nữ, thanh niên, người khó khăn – mỗi nhóm có vai trò riêng, hỗ trợ lẫn nhau. Tính liên thế hệ giúp gắn kết, học hỏi và kế thừa bền vững giữa các thế hệ.
Lợi ích vượt ra ngoài nhóm NCT: Ngoài NCT, mô hình còn mang lại lợi ích cho phụ nữ, thanh niên và cộng đồng thông qua cơ hội nâng cao năng lực, tăng thu nhập, tham gia hoạt động xã hội, bảo vệ môi trường và giảm nghèo.
Khả năng tích hợp và mở rộng: CLB có tính linh hoạt cao, có thể bổ sung nội dung theo nhu cầu địa phương như thích ứng biến đổi khí hậu, bảo vệ môi trường, kỹ năng số, chăm sóc dài hạn cho NCT.
Một số trích dẫn về CLB:
“CLB LTH TGN là sân chơi bổ ích cho NCT ở cơ sở về công tác bảo vệ, chăm sóc, đặc biệt phát huy vai trò NCT trong bối cảnh già hóa dân số ở Việt Nam. CLB tạo được sự gắn kết cộng đồng trong các khu dân cư, giúp NCT và các đối tượng khác vượt qua khó khăn” - Ông Nguyễn Thanh Bình, Chủ tịch Hội NCT Việt Nam
“Các hoạt động của CLB thể hiện tính nhân văn sâu sắc, và rất gắn liền với công tác bảo trợ xã hội như huy động ủng hộ tấm lòng vàng, giúp đỡ người khó khăn, nâng cao thu nhập giúp thoát nghèo, phòng chống rủi ro thiên tai và trợ giúp, tăng cường sự hòa nhập, sự tham gia có ý nghĩa của NCT. Có thể nói CLB là một hình thức bảo trợ xã hội mới, khi có đầy đủ toàn diện các dịch vụ hỗ trợ người khó khăn, và đồng thời phát huy được nguồn lực sẵn có tại cộng đồng, nhất là lớp NCT. Các đơn vị thôn, xã trên cả nước rất cần những mô hình có hiệu quả như CLB LTH TGN, đây cũng là vấn đề đặt ra cho những nhà hoạch định chính sách, các nguồn viện trợ, hỗ trợ cho công tác nhân rộng mô hình CLB”- Ông Nguyễn Ngọc Toản - Phó Cục trưởng Cục Bảo trợ xã hội, Bộ Y tế ”
“Nhìn thấy niềm vui và sự phấn khởi trên khuôn mặt của mọi người ở đây, chúng tôi có thể thấy những lợi ích cụ thể mà CLB mang lại – các hoạt động lành mạnh, gắn kết với cộng đồng, tiếp cận các dịch vụ công thiết yếu. Thành viên CLB đang được tận hưởng những điều mà chúng ta hình dung là cuộc sống lý tưởng khi về già”- Bà Yolanda Azarcon, Cán bộ điều hành cấp cao của Quỹ Phát triển Xã hội Nhật Bản, Ngân hàng Thế giới
“CLB LTH TGN là chương trình ý nghĩa đối với những hoàn cảnh cần được chăm sóc, giúp phát hiện kịp thời bệnh cấp tính, phòng tránh bệnh mãn tính, giúp cho ngành Y tế phát hiện bệnh kịp thời và theo dõi bệnh, từ cơ sở đến chuyên môn cao. Ngành Y tế sẽ phối hợp với CLB để tập huấn, hỗ trợ truyền thông về chăm sóc sức khỏe"- Ông Lê Thanh Tuân, Phó Giám đốc Sở Y Tế tỉnh Quảng Bình
“Mô hình CLB LTH TGN thể hiện khả năng thích ứng cao, phù hợp với nhiều bối cảnh khác nhau, bao gồm vùng nông thôn, miền núi và vùng nghèo. Mô hình được thiết kế linh hoạt để đáp ứng các nhu cầu và ưu tiên cụ thể của bối cảnh địa phương” - Bà Emiko Masaki, Chuyên gia Kinh tế - Y tế cao cấp, Ngân hàng Thế giới
“Tính bền vững là sự khác biệt lớn nhất của mô hình CLB LTH TGN so với tất cả các mô hình khác” - Bà Phạm Hoài Giang, Nguyên Ủy viên Đoàn Chủ tịch, Trưởng Ban Quốc tế, Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam
Mô hình CLB LTH TGN là giải pháp xã hội sáng tạo, hiệu quả và bền vững, giúp nâng cao chất lượng sống của NCT, củng cố gắn kết cộng đồng, đồng thời thích ứng với già hóa dân số – có tiềm năng nhân rộng trong và ngoài Việt Nam.
Kết quả định lượng:
Hơn 9.000 : CLB được thành lập tính đến giữa 2025
496.230 : Thành viên của hơn 9.000 CLB được hưởng lợi
63/63 (cũ) hay 34/34 (mới) : Tỉnh/thành có CLB LTH TGN
Gần 300.000 : Lượt thành viên được vay vốn hoặc hỗ trợ (2020-2025)
Hơn 45.000 : Tình nguyện viên chăm sóc tại nhà tại các CLB
Hơn 36.000 : Người được chăm sóc bởi tình nguyện viên các CLB
427.500 : Thành viên được đo huyết áp, cân nặng hàng tháng
50.000 : Lượt người khó khăn, ốm đau, cô đơn được giúp
36.000 : Hoạt động hỗ trợ cộng đồng do CLB thực hiện
450 nghìn tỷ VND : Do 9.000 CLB vận động
99,7% : Thành viên cho biết sức khỏe được cải thiện (VIE071)
99,8% : Thành viên cảm thấy cuộc sống được cải thiện (VIE071)
99,8% : Thành viên cho biết nhận thức được cải thiện (VIE071)
82% : Thành viên cho biết thu nhập được cải thiện (VIE071)
99,9% : Thành viên cho biết cộng đồng đoàn kết hơn (VIE071)
Tiềm năng nhân rộng mô hình
Trong bối cảnh già hóa dân số nhanh, mô hình CLB LTH TGN đã chứng minh là một giải pháp cộng đồng hiệu quả, góp phần chăm sóc sức khỏe thể chất và tinh thần, tạo sinh kế, giảm cô đơn, bảo vệ và phát huy vai trò NCT, đồng thời tăng cường gắn kết liên thế hệ và thay đổi nhận thức xã hội về NCT. Mô hình được phát triển, tinh chỉnh và nhân rộng trong nhiều năm qua, với những yếu tố then chốt bảo đảm cho quá trình mở rộng bền vững trên quy mô quốc gia và quốc tế.
Tính phù hợp và hiệu quả đã được chứng minh
Mô hình CLB LTH TGN ra đời từ nhu cầu thực tế của NCT và cộng đồng, được xây dựng dựa trên truyền thống đoàn kết, tương trợ và tinh thần “lá lành đùm lá rách”, nên dễ được chấp nhận và duy trì. Thực tiễn triển khai gần 20 năm cho thấy, việc tham gia CLB giúp đa số thành viên có cuộc sống vui vẻ, khỏe mạnh hơn, tăng thu nhập, cải thiện tinh thần, nâng cao sự tự tin và gắn kết xã hội. CLB không chỉ hỗ trợ NCT mà còn giúp đỡ các nhóm yếu thế khác, góp phần vào chương trình giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới và đô thị văn minh.
Sự đồng thuận và khả năng tích hợp với ưu tiên địa phương
Mô hình phù hợp với định hướng của Hội NCT Việt Nam và các đoàn thể khác như Hội Phụ nữ, đồng thời nhận được sự ủng hộ của chính quyền địa phương vì góp phần vào nhiều chương trình phát triển như chăm sóc sức khỏe ban đầu, giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới, chuyển đổi số và chuyển đổi xanh. Nhiều địa phương đã lồng ghép hoạt động CLB vào kế hoạch phát triển hằng năm, huy động sự phối hợp liên ngành, tạo nền tảng thuận lợi để nhân rộng mô hình.
Công cụ chuẩn hóa, đào tạo và cơ chế dễ nhân rộng
CLB LTH TGN đã được chuẩn hóa về quy trình, tài liệu và hướng dẫn thực hành. Hội NCT Việt Nam cùng tổ chức HAI đã xây dựng bộ sổ tay hướng dẫn thống nhất trên toàn quốc và tổ chức nhiều khóa tập huấn giảng viên nguồn. Nhờ đó, các địa phương có thể chủ động thành lập và vận hành CLB mới. Nhiều Ban Chủ nhiệm CLB sau tập huấn đã đủ năng lực hướng dẫn các thôn, bản khác tự xây dựng CLB. Ngoài ra, gần 90 video hướng dẫn về hoạt động CLB và hàng trăm tài liệu truyền thông, bản tin, chương trình truyền hình đã được số hóa, giúp mô hình dễ học hỏi, dễ áp dụng và nhân rộng.
Chi phí thấp, cơ chế tự nguyện và tự quản
CLB hoạt động với chi phí thấp, dựa trên nguồn lực sẵn có của cộng đồng. Sau giai đoạn đầu được hỗ trợ xây dựng quỹ tăng thu nhập và tập huấn, CLB có thể tự vận động nguồn lực để duy trì hoạt động. Việc điều hành dựa trên tinh thần tự nguyện của Ban Chủ nhiệm và các tình nguyện viên, cùng sự hỗ trợ của Hội NCT và chính quyền địa phương. Phần lớn kinh phí đến từ quỹ tự đóng góp, huy động xã hội hóa và nguồn lực cộng đồng, giúp mô hình vận hành linh hoạt và ít phụ thuộc vào ngân sách Nhà nước.
Chính sách quốc gia hỗ trợ mở rộng
Ngày 01/8/2025, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 1648/QĐ-TTg phê duyệt Đề án nhân rộng CLB Liên thế hệ Tự giúp nhau đến năm 2035, đặt mục tiêu thành lập thêm 12.000 CLB trên toàn quốc, đồng thời duy trì và củng cố hơn 9.000 CLB hiện có. Cùng với đó, Chiến lược Quốc gia về NCT đến năm 2035, tầm nhìn 2045 xác định CLB LTH TGN là giải pháp chủ lực trong thích ứng với già hóa dân số, bảo đảm an sinh và phát huy vai trò NCT, đồng thời tích hợp nội dung chuyển đổi số và chuyển đổi xanh. Đây là nền tảng chính sách vững chắc để mở rộng mô hình trên quy mô toàn quốc.
Thực tế nhân rộng tại Việt Nam
Từ khoảng 60 CLB thí điểm năm 2006, đến năm 2016, Đề án 1533 đã giúp mở rộng lên khoảng 3.000 CLB. Giai đoạn 2020–2025, theo Đề án 1336, cả nước thành lập thêm 6.000 CLB mới. Đến giữa năm 2025, tổng số CLB đã vượt 9.000 tại 63 tỉnh, thành phố, thu hút hàng trăm nghìn thành viên. Những kết quả này khẳng định mô hình đã được nhân rộng thành công trên phạm vi toàn quốc, tạo nền tảng vững chắc cho giai đoạn tiếp theo theo Quyết định 1648.
Nhân rộng ra ngoài phạm vi Việt Nam
Mô hình CLB LTH TGN không chỉ thành công trong nước mà còn được quốc tế tham khảo và áp dụng thông qua các chương trình chia sẻ kinh nghiệm do HAI và Hội NCT Việt Nam tổ chức. Hiện mô hình đã được triển khai tại Bangladesh, Campuchia, Myanmar và nhiều quốc gia khác trong khu vực. Việc mô hình được điều chỉnh và áp dụng thành công ở nhiều quốc gia cho thấy tính phổ quát, linh hoạt và khả năng thích ứng cao
Bản quyền và tính hợp pháp của các hình ảnh, video, thông tin, dữ liệu về dự án được đăng tải trên landing page (trang thông tin dự án) này do cá nhân/ tổ chức đăng ký tham gia giải thưởng cung cấp và chịu trách nhiệm.























